Dung Quất vào cuối tháng 11-2007: Ban quản lý Nhà máy lọc dầu Dung Quất đã ký hợp đồng EPC (tổng thầu) với Tập đoàn cơ khí Huyndai và LG (Hàn Quốc) xây dựng một nhà máy sản xuất nguyên liệu nhựa với tổng vốn đầu tư lên tới 232 triệu USD, mỗi năm có thể sản xuất 150.000T hạt nhựa.
Những tín hiệu đáng mừng
Trong hơn mười năm qua, ngành nhựa Việt Nam phát triển khá nhanh với tốc độ tăng trưởng hằng năm đạt từ 15 đến 25%. Với hơn 2.000 doanh nghiệp (trong đó doanh nghiệp tư nhân chiếm tới 95%), ngành nhựa được coi là một trong những ngành công nghiệp năng động.
Bằng các nguồn vốn khác nhau, hằng năm, các doanh nghiệp nhựa đầu tư hơn hai tỷ USD nhập các thiết bị máy móc hiện đại từ các nước như: Ðức, I-ta-li-a, Nhật Bản, Pháp… để trang bị như: cán, tráng, ép đùn, ép phun, đùn thổi, ghép, in…, đáp ứng cơ bản nhu cầu của bốn lĩnh vực: tiêu dùng, xây dựng, bao bì và kỹ thuật cao.
Nhờ có công nghệ chế tạo khuôn hiện đại có thể sản xuất những bộ khuôn dài hơn 2 m, ngành nhựa đã sản xuất được những mặt hàng đòi hỏi kỹ thuật cao như: tàu thuyền composite, các phụ tùng phục vụ công nghiệp sản xuất: xe gắn máy, ti-vi, tủ lạnh, máy lạnh cũng như nhiều sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu khác như: ống nhựa xoắn HDPE chịu áp lực cao, ống xoắn, bao bì đạt tiêu chuẩn, chai PET, sản phẩm bao bì nhiều lớp…
Năm 2007, ngành nhựa sản xuất và tiêu thụ gần ba triệu tấn sản phẩm. Sản phẩm nhựa tính trên đầu người năm 1990 chỉ đạt 3,8 kg/năm thì nay đã tăng lên 22,1 kg/năm.
Ðiều đáng mừng là sản phẩm nhựa Việt Nam đã có mặt tại thị trường 48 nước trên thế giới với kim ngạch xuất khẩu năm 2007 là 750 triệu USD (trong đó thị trường Mỹ đứng đầu với hơn 95,2 triệu USD).
Nhiều doanh nghiệp có những mặt hàng đứng vững trên thị trường thế giới như: Công ty CP nhựa Rạng Ðông với khăn trải bàn, vải giả da, Công ty CP nhựa Tân Ðại Hưng với bao dệt PP, Công ty CP nhựa Hưng Yên với túi HDPE đựng hàng siêu thị và bao đựng rác.
Khó khăn phải trải qua
Thách thức lớn nhất mà các doanh nghiệp nhựa đang phải đối đầu là việc cung cấp nguyên liệu phụ thuộc phần lớn vào nhập khẩu và sự biến động liên tục về giá nguyên liệu.
Hiện nay, trong cả nước chỉ có hai nhà máy sản xuất PVC resin là Công ty TPC Vina, Công ty TNHH nhựa và hóa chất Phú Mỹ với tổng công suất mỗi năm khoảng 250.000T PVC; một nhà máy khác của Công ty hóa chất LG Vina mỗi năm cung cấp khoảng 150.000T nguyên liệu DOP.
Nguyên liệu sản xuất trong nước chỉ đáp ứng khoảng 10% nhu cầu của các doanh nghiệp nhựa. Vì vậy, hằng năm, ngành nhựa phải nhập khẩu từ hai triệu đến 2,5 triệu tấn các dòng nguyên liệu khác như: PE, PP, ABS, PC, PS…
Thí dụ, giá một tấn bột PVC năm 2006 là 830 USD đến năm 2007 tăng lên 960 USD và hiện nay đã lên đến 1.020 USD. Nhưng, điều đáng ngại nhất là giá nguyên liệu nhựa thường tăng đột biến và bất ngờ, khiến các nhà sản xuất không kịp trở tay. Họ không thể liên tục điều chỉnh giá sản phẩm của mình vì phải giữ chữ tín với khách hàng.
Sự cạnh tranh về mặt hàng nhựa ngày càng quyết liệt cả trên thị trường trong nước lẫn thị trường thế giới. Với thế mạnh về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm và thị trường tiêu thụ, các nhà đầu tư nước ngoài xây dựng ngày càng nhiều nhà máy nhựa tại Việt Nam.
Phần lớn các doanh nghiệp nhựa hình thành và phát triển từ các công ty gia đình, nên vốn hạn hẹp, trình độ quản lý hạn chế, thiếu thông tin cập nhật. Những doanh nghiệp này thường đầu tư chủ yếu vào những ngành hàng đơn giản, đòi hỏi nhiều lao động và lợi nhuận ít.
Vì thế, ngành nhựa chưa đủ sức vươn lên trở thành ngành công nghiệp phụ trợ cho các ngành sản xuất khác.
Ðể tăng sức cạnh tranh của mặt hàng nhựa Việt Nam trên thị trường, việc nâng cao năng lực, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm là yêu cầu bắt buộc. Cùng với việc đầu tư đổi mới công nghệ, các doanh nghiệp cần tìm ra các giải pháp giảm chi phí sản xuất, trong đó giảm tiêu hao năng lượng điện có ý nghĩa quyết định.
Ngành cơ khí cần phối hợp với ngành nhựa, tự mình hoặc liên doanh với nước ngoài, từng bước sản xuất thiết bị, khuôn mẫu để các doanh nghiệp nhựa có thể giảm chi phí đầu tư. Các doanh nghiệp nhựa cần phối hợp với nhau chặt chẽ hơn, nhất là các doanh nghiệp cùng ngành hàng để hỗ trợ, bảo vệ nhau trong sản xuất kinh doanh trước sự cạnh tranh quyết liệt của hàng nước ngoài.
An Đạt Phát với thách thức của ngành nhựa
An Đạt Phát cũng đang từng bước cải tiến nâng cao năng lực tay nghề của đội ngũ công nhân viên, cải tiến máy móc hiện đại để kịp ứng phó với những khó khăn gặp phải. Với thời gian 15 năm trên thị trường ống nhựa cũng đã cho thấy được kinh nghiệm giải quyết vấn đề của OSPEN – Ống bảo vệ cáp điện.
Với phương châm “Bền uy tín – Vững tương lai” – An Đạt Phát sẽ mang đến quý khách hàng những dịch vụ, sản phẩm tuyệt vời nhất.
Quý khách có nhu cầu về sản phẩm ống nhựa xoắn HDPE OSPEN vui lòng để lại thông tin qua hotline 0904.888.186 (zalo, viber) để được tư vấn chi tiết nhất. Báo giá ưu đãi cho quý khách hàng.